Quần thể Di tích Đền Rối và Chùa Minh Pháp
1. Tên gọi Di tích
– Di tích lịch sử – văn hóa Chùa và Đền Rối Kubet11 , thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
– Tên gọi khác: Chùa Minh Pháp
2. Loại hình Di tích
Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
3. Quyết định công bố Di tích
Quyết định số 460/QĐ-UBND ngày 30/11/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận Chùa và Đền Rối Kubet11 , thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
4. Địa điểm Di tích
Đền và chùa Rối tọa lạc dưới chân một quả đồi hình bát úp rợp bóng cổ thụ tại thôn Trấn Ninh, Kubet11 , thành phố Yên Bái, nằm cách Trung tâm thành phố chừng 3km, trên trục đường Âu Cơ ra cao tốc Nội Bài – Lào Cai.
Bản đồ chỉ đường đến Chùa và Đền rối
5. Sơ lược lịch sử Di tích
Thôn Trấn Ninh vốn xưa kia có tên gọi thôn Trĩ Rối, thuộc sách Hào Gia, tổng Bách Lẫm, tỉnh Hưng Hóa ở thượng du Bắc Bộ, được thành lập từ năm 1833 dưới thời vua Minh Mạng. Đây là vùng lâm tuyền kỳ thú, núi non quây quần, thung khe trong mát, bốn mùa cây cối tốt tươi. Cư dân nông nghiệp quần tụ ở đất này, hiền hòa đoàn kết, sơn trang yên ấm, mỹ tục thuần hậu.
Theo các bậc cao niên ở Tân Thịnh, đền Rối được khởi dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, ở Hạ Hòa, Phú Thọ ngày nay có một người tên là Phạm Tà Chiêu vì không chịu cảnh đè nén áp bức của quan lại địa phương đã đưa vợ con và người nhà đi thuyền ngược dòng sông Hồng và cuối cùng dừng chân ở đất Tân Thịnh ngày nay, khai phá lập nên xóm làng. Đây là vùng đất màu mỡ, lâm thổ sản phong phú, có địa hình thuận tiện cho việc giao thương buôn bán với nhiều miền. Ông cũng là người đứng ra xây dựng di tích Đền Rối, Chùa Rối và Đình Làng Yên.
Theo ngọc phả của Đền, thì ngôi đền thờ 5 vị Thành hoàng có tên là Cao Lễ Đại Vương, Cao Kha Đại Vương, Cao Đạt Đại Vương, Cao Tự Đại Vương, Đỗ Đốc Mãnh Đại Vương. Năm vị này là 5 anh em ruột, con của Cao Nghĩa và Phùng Thị Thầm. Vào đời Hùng Duệ Vương, núi Đông Sơn xuất hiện quái vật hại người, hổ sói làm loạn, sát hại dân chúng. Hùng Duệ Vương ủy thác cho các tướng: Cao Lễ Đại Vương, Cao Kha Đại Vương, Cao Đạt Đại Vương, Cao Tự Đại Vương, Đỗ Đốc Mãnh Đại Vương đánh dẹp quái vật. Để ghi nhớ công ơn của họ, người đời sau đã lập đền thờ.
Ngoài ra, Đền Rối còn thờ một công chúa có tên là Ngọc Dung – con thứ 8 của Hùng Triệu Vương và bà Phạm Nguyên Phi. Trải qua các đời vua, Đền Rối được 2 đạo sắc phong. Đạo thứ nhất được sắc phong vào ngày 8 tháng 6 (nhuận) năm 1911 đời vua Duy Tân năm thứ 5; đạo thứ hai sắc phong vào ngày 25 tháng 7 năm 1924, đời vua Khải Định.
Đền có kiến trúc theo kiểu chữ nhất với một gian đại bái và một gian hậu cung – được làm theo kiểu nhà sàn. Gian đại bái, còn giữ được nguyên trạng kiến trúc mỹ thuật cổ triều Nguyễn với những đường nét chạm trổ tinh xảo trên xà nóc, đầu bẩy và các bộ cửa võng theo đề tài: lưỡng long chầu nguyệt, long ẩn, hổ phù, đề tài tứ linh, hoa, điểu…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đền và chùa Rối trở thành nơi ở và nơi làm việc của cán bộ cách mạng. Thời kỳ này, Đền không có người thờ cúng, trông coi nên các cỗ ngai và đồ thờ tự được xếp vào một nơi không ai chú ý đến. Đến năm 1953 thì 4 cỗ ngai bị mất, đến năm 1979 thì 5 bát hương bằng đá cũng bị thất lạc.
Trong đền, hiện còn giữ được khá nhiều hiện vật và đồ thờ cổ như: ngai thờ, bát nhang, ngựa thờ, hòm sắc. Đặc biệt, các bức đại tự và câu đối với nét chữ tài hoa trên chất liệu gỗ quý. Bức đại tự ở gian đại bái gồm ba chữ: Vân Phú từ – chính là tên tự của đền. Bức thứ hai gồm năm chữ: Diên Trì Vương Mẫu (có nghĩa là nơi ngao du của Vương Mẫu) được hoàn thành vào năm Mậu Dần – niên hiệu Bảo Đại). Cùng với các bức đại tự, trong đền còn treo hai câu đối: “Trạc trạc quyết ninh thi tán hóa/ Dương dương như tại bảo bình yên” và “Thánh hóa viễn chiêm trưng thọ khải/ Mẫu nghi kiều ngưỡng khánh Hào Gia” (Tạm dịch là “Yên vui thanh bình thực hiện nền giáo hóa/Mênh mang như còn bảo vệ sự bình yên” và Sâu xa thay, giáo hóa của bậc thánh nhân làm sáng tỏ niềm vui – Ngẩng trông bậc Mẫu nghi thiên hạ, vinh hiển đất Hào Gia”).
Ngược lên đỉnh đồi không bao xa là Chùa Rối. Ngôi chùa này cũng nằm trong cụm Di tích lịch sử văn hóa đền, chùa Rối. Theo ngọc phả, chùa được đổi tên là Minh pháp tự. Tọa lạc dưới tán đa cổ thụ bốn mùa tỏa bóng xanh mát, Chùa Rối được dựng lên bởi chính sự linh nghiệm và tín ngưỡng tâm linh của nhân dân trong vùng. Năm 2004, chùa đã có sư cô, pháp danh Thích Đàm Hợi trụ trì. Cũng từ đây, Di tích lịch sử văn hóa đền, chùa Rối thực sự trở thành điểm đến tâm linh hội tụ cả ba yếu tố Thiên – Địa – Nhân kỳ diệu, thu hút đông đảo tăng ni phật tử và du khách thập phương tham quan, chiêm bái.
Chùa Rối mang đậm nét văn hóa tâm linh
Trải qua thời gian, hiện nay đền và chùa Rối đã được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Năm 2011, được sự nhất trí của cơ quan chức năng và tấm lòng hằng tâm hằng sản của mọi người, một tòa đền mới được khởi dựng khang trang, vững chãi liền kề ngôi đền cổ. Cổng tam quan, mái đền lợp ngói mũi hài, đầu đao cong vút cách điệu hình tượng con nghê, tạo nên sắc thái mới mà vẫn giữ được dáng vẻ thâm nghiêm Bên trái khu đền, giờ đây còn có hồ thiền quang và tòa Phật đài Bồ Tát tọa lạc giữa mặt gương nước biếc, lung linh tỏa ngát hương sen mùa hạ càng làm cho cảnh quan đền Rối thêm phần linh thiêng, huyền hoặc.
6. Các nhân vật được thờ tự
Đền thờ 5 vị Thành hoàng và Công chúa có tên là Ngọc Dung – con thứ 8 của Hùng Triệu Vương.
Sơ đồ các tượng thờ trong chùa
7. Các hiện vật trong Di tích
Trong đền, hiện còn giữ được khá nhiều hiện vật và đồ thờ cổ như: ngai thờ, bát nhang, ngựa thờ, hòm sắc, các bức đại tự.
8. Phong tục lễ hội
Những ngày lễ chính trong năm được tổ chức tại Đền như ngày 6 tháng giêng (âm lịch); ngày 10 tháng 2 (âm lịch); ngày 7 tháng 3 (âm lịch); ngày rằm tháng 7; tết tháng chạp, tháng 12 âm lịch. Tuy nhiên, lễ đền chính được tổ chức hàng năm vào ngày 6 tháng giêng như để ghi nhớ công lao của các vị anh hùng, thành hoàng đã có công xây dựng đền. Cũng là dịp để du khách thập phương đến dâng hương cầu lộc, cầu chữa lành bệnh, cầu bình an.
Di tích Chùa và Đền Rối Kubet11 , thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Quy hoạch tổng thể khu di tích